PHẨM 1:               “TỰA”

 

Kinh nầy tôi nghe, một lúc nọ đức Phật trụ ở núi Kỳ-xà-quật cùng với số  chúng tụ họp xung quanh Phật rất đông, gồm đủ các thành phần:

Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán 12.000 người.  Bậc hữu-học và vô-học 2.000 người.  Tỳ-kheo-ni 6.000 người.  Bồ-tát 80.000 người.  Trời Đế-thích và quyến thuộc 20.000 người.  Tứ Đại-Thiên-Vương và quyến thuộc 10.000 người.  Trời Tự-Tại và Đại-tự-tại cùng quyến thuộc 30.000 người.  Phạm-Thiên-Vương và quyến thuộc 12.000 người.  Tám vị Long-Vương và quyến thuộc; A-tu-la-vương và quyến thuộc; Ca-lầu-la-vương và quyến thuộc nhiều trăm ngàn người.  Có vua A-xà-thế, con bà Di-đề-hi cùng quyến thuộc tùy tùng câu hội…

Đại chúng đều đảnh lễ cúng dường tán thán Phật, rồi lui ngồi qua một phía.

Bấy giờ đức Thế-Tôn v́ chư đại Bồ-tát nói kinh Đại-Thừa tên là:

Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm

Nói kinh xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không lay động.

Chư Thiên vull mừng rải thiên hoa cúng dường Phật, hàng Nhân-Thiên tán thán chấp tay một ḷng chiêm ngưỡng đức Như Lai.

Lúc bấy giờ, từ tướng lông trắng chặng giữa đôi mày Phật, phóng ra ánh hào quanh chiếu khắp mười vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông.  Trên từ cơi sắc cứu cánh dưới suốt ngục A-tỳ.  Chúng sanh trong sáu đường đều thấy rơ lẫn nhau.

Lại thấy chư Phật  ở các quốc-độ đang nói pháp và được nghe pháp của các Phật rơ ràng.  Cũng thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ tu hành đắc đạo.  Thấy các Bồ-tát thực hành lục độ trong việc tự-lợi lợi-tha tinh-tấn trên đường Bồ-đề.  Lại thấy có đức Phật nhập Niết-bàn, có nơi xây dựng tháp tôn thờ xá lợi...

Bồ-tát Di-lặc và đại chúng đều lấy làm  lạ trước điềm lành này.  Thay mặt cho tất cả Bồ-tát, Ngài Di Lặc cầu xin Đại Trí Văn Thù là bậc xuất chúng, giải thích cho đại chúng về những sự kiện trên.

Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi giải đáp rằng: theo chỗ tôi biết th́ Thế-Tôn nói pháp lớn.  Bồ-tát Văn Thù nói tiếp: Tôi  từng ở trong vô lượng Phật quá-khứ đă thấy điềm lành này.  Chư Phật phóng hào quang như thế, sau đó liền nói “pháp lớn”.  Cho nên tôi  biết chắc rằng, hôm nay Phật v́ muốn cho chúng sanh được nghe biết “pháp nhiệm mầu” mà tất cả người đời  khó tinh cho nên hiện ra điềm lành ấy…

Bồ-tát  Văn Thù kể tiếp: Cách vô lượng A-tăng-kỳ-kiếp về trước có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt  Đăng Minh  đủ mười đức hiệu diễn nói chánh pháp, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, nghĩa lư sâu xa, trước sau không mâu thuẫn, thuần nhất không tạp.  Phật v́ người Thanh-Văn thừa nói “Tứ-Đế” cầu ra khỏi sanh, già, bệnh, chết được cứu cánh Niết-bàn.  V́ hạng cầu quả Duyên-giác nói pháp “Thập nhị nhân duyên”, v́ hàng bồ-tát nói pháp “Lục-ba-la-mật” khiến cho chứng quả Vô thượng Bồ-đề thành tựu  Nhất-thiết chủng-trí.  Kế tiếp  có 20.000 đức Phật cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh  và cùng  một họ Phả-loa-đoạ.  Pháp của tất cả chư Phật nói ra ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành.

Đức Phật rốt sau vốn là một nhà vua, lúc chưa xuất gia có tám vị vương-tử tên là Hữu Ư, Thiện Ư, Vô Lượng Ư, Bảo Ư, Tăng Ư, Trừ Nghi Ư,  Hướng Ư Pháp Ư.  Nghe vua cha xuất gia tu hành  thành đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác đều bỏ ngôi xuất gia theo.

Thủo đó, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng như đức Phật Thích-Ca hiện nay,  nói kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.  Nói xong bèn nhập chánh định  Vô Lượng Nghĩa Xứ thân tâm không động.

Hàng Chư-Thiên hân hoan rải hoa cúng dường.  Đại chúng vui mừng chấp tay nh́n Phật với tất cả ḷng kính mộ.  Lúc bấy giờ từ tướng lông trắng, chặng giữa đôi mày Như-Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000  thế giới ở phương Đông, y như điềm lành hiện nay mà đại chúng cùng đang thấy.

Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh  Như-Lai từ chánh  định  dậy,  v́ Bồ-tát Diệu Quang và tám trăm đệ tử mà nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải 60 tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi.  Người nghe pháp cũng ngồi một chổ đến 60 tiểu kiếp thân-tâm không động, không mỏi mệt và xem thời gian  ấy  mau chừng như trong một bữa ăn.

Sau 60 tiểu kiếp nói kinh,  trước chúng hội; Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên-long, Ma Phạm, Nhơn phi-nhơn, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh tuyên bố: hôm nay vào nữa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn .  Trước khi vào Niết-bàn, Phật thọ kư cho Bồ-tát Đức Tạng, trước đại chúng rằng: Đức-Tạng Bồ-tát nầy sẽ thành Phật  hiệu là Tịnh Thân Như-Lai đủ mười đức hiệu thọ kư xong, đúng như lời tuyên bố đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn vào lúc nửa đêm.

Sau Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang thọ-tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp v́ người diễn nói và dạy  bảo cho tám vị vương tử ở vững trong đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.  Tất cả tám vị lần lượt đều thành Phật và vị Phật chót hiệu là Nhiên Đăng.

Trong tám trăm đệ tử của Bồ-tát Diệu Quang có một người tên là Cầu Danh.  Sở dĩ người nầy có cái tên ấy là v́ c̣n tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng  kinh điển  nhiều mà không thuộc rành.  Dù vậy, đó cũng là một “căn lành” đă từng  “gieo giống Phật” trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp.

Sau khi kể lại câu chuyện trên, Bồ-tát Văn Thù kết luận: Bồ-tát Diệu Quang lúc đó đâu phải người nào lạ, chính là ta đây, c̣n Cầu Danh Bồ-tát lúc đó, nay chính là Di-Lặc ngài đấy.

Hôm nay đức Phật Thích Ca phóng quang hiện điềm giống hệt xưa kia, tôi nghĩ là đức Phật cũng sẽ nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

 

 THÂM NGHĨA

Học kinh Phật các tiền bối  thường hay quan tâm đoạn mở đầu.  Các ngài cho rằng ở phần thông tựa phải có đủ những yếu tố “ Lục Chủng Thành Tựu” th́ nó mới được xem là chánh thống kinh Phật nói. Thí dụ:

“Kinh Pháp Hoa này, tôi nghe một thời nọ, đức Phật trụ tại Linh-Thứu-Sơn, cùng với số Tăng-Ni đại chúng cả thảy có bao nhiêu ngàn người”.

“Lục Chủng Thành Tựu” hay  “Lục Trùng Chứng Tín” tên gọi khác nhau, nhưng tiền bối quan niệm: Kinh Phật nói th́ phải hội đủ những đều như thế.

Thật lư mà  suy: muốn thành tựu một việc ǵ cần phải hội đủ yếu tố của  việc đó.  Điều đó là tất nhiên; nhưng nếu là kẻ gian, họ đem “Lục chủng thành tựu” thay đổi cái “địa danh” na-ná, phịa ra tên “kinh mới” cùng một số đại chúng tương tợ… cho vào phần đầu… cái quyển kinh sách “dỏm” của họ.  Điều đó, nếu người ta muốn làm th́ chẳng phải khó khăn ǵ.  V́ vậy đọc kinh điển Phật với tôi vấn đề Văn-Nhi-Tư. Tư-Nhi-Tu mới đem lại cho người Phật tử cái “trí tuệ” đích thực của chính ḿnh.

Trước khi nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật v́ các hàng Bồ-tát, nói kinh  Lượng Nghĩa Giáo Bồ-Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.  Việc làm nầy của Phật có dụng ư sâu-xa.  Có nghĩa là muốn học hiểu kinh Pháp Hoa, phải “chuẩn bị tư tưởng” qua kinh Vô Lượng Nghĩa.  Nói cách khác, có ư thức trong sự  tiếp thu tốt về chân lư “ thuần viên độc diệu” đệ nhất nghĩa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Kinh Vô Lượng Nghĩa, nhưng không được hiểu rằng kinh này có nhiều nghĩa.  Hiểu thế là sai.  Vô Lượng Nghĩa ở đây phải hiểu là không cắt nghĩa được, cắt nghĩa kiểu nào, ngôn từ khéo léo đến đâu, nói hoài, nói măi, nói “ vô lượng ngữ ngôn” thậm chí “vô lượng kiếp số” cũng không diễn đạt thấu  đáo được cái chân lư của ư kinh Phật dạy, ngoại trừ người “thể nhập”.

“ Như nhơn ẩm thủy  lănh noăn tự tri”.  Cốc nước đó, nóng hay lạnh, chỉ có người được uống mới biết cái chừng độ của nó.

Người đệ tử  Phật, phải hiểu Vô Lượng Nghĩa qua tinh thần tu học đó.

Sau đây, lời Phật dạy cho Bồ-tát Đại Trang Nghiêm và các Bồ-tát phải tu học về giáo lư Vô Lượng Nghĩa của Đại Thừa.

Phật bảo:  Này Đại Trang Nghiêm! Bồ-tát muốn tu học pháp môn Vô Lượng Nghĩa th́ phải nên quan sát: Hết thảy  các pháp, từ trước đến nay, tánh tướng thường rỗng rang vắng lặng, thanh tịnh bản nhiên, không sanh , không diệt, không nhơ, không sạch,  không thêm, không bớt, không đến, không đi, không một, không khác, không thường, không đoạn,  không ra, không vào, không lùi, không tiến… Ví như hư không, không có cái hai.  Chỉ v́  chúng sanh hoạnh chấp.  Chấp lấy  cái giả dối rồi cho là cái này, cái kia, là được, là mất… khởi ra tâm niệm không lành, tạo mọi điều ác nghiệp; do vậy mà loanh quanh trong sáu nẻo chịu mọi sự khổ đau vô lượng ức kiếp mà không tự biết để t́m lấy cái lối ra!

Này Đại Trang Nghiêm! Tu học Vô Lượng Nghĩa, Bồ-tát phải quán chiếu tư duy:

Pháp tướng “ như vậy”, nó sanh “như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó trụ “ như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó dị “như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó diệt “như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó sanh ác pháp.

Pháp tướng “ như vậy”, nó sanh thiện pháp.

Pháp trụ, dị, diệt cũng sanh thiện pháp và ác pháp “như vậy”.

Tóm lại tu học Vô Lượng Nghĩa là tu học cách quán chiếu Thật Tướng các pháp.  Tu học nhận thức về cái tự tánh “Như Thị” thanh tịnh  bản nhiên của hiện tượng vạn pháp cho đến khi tự ḿnh thể nhập  cái chân lư “ Thật Tướng Vô Tướng“ Vô Tướng Bất Tướng” (Thật tướng của vạn pháp là “Không” mà ư niệm “không” cũng không lưu giữ).

Bồ-tát tu học Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, chuẩn bị cho ḿnh một tư thế sẳn sàng để tiếp  thọ tư tưởng  “Duy Nhất Phật Thừa Vô Hữu  Dư Thừa Nhược Nhị Nhược Tam” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa (chỉ có một Phật thừa duy nhất, không có thừa nào khác để gọi  là hai hoặc ba).

Với giáo lư vô thượng thậm thâm vi diệu đó, nên kinh Vô Lượng Nghĩa và kinh Diệu Pháp Liên Hoa là thứ chân lư “Duy Hữu Phật Dữ Phật Năi Năng Tri Chi” (Chỉ có Phật với Phật mới hiểu rơ nguồn giáo lư đó)

Xét cho cùng, th́ Như Lai thường trụ trong chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, chứ không phải  chỉ có cơ hội  sau khi nói  kinh Vô Lương Nghĩa  Như Lai mới nhập định Vô Lượng Nghĩa Xứ.  Thập lực, tứ vô-sở-uư, thập  bát bất cộng pháp, Như Lai lúc nào chẳng có!

Tướng Lông trắng giữa đôi mày Phật là một tướng trong 32 tướng của Phật.  C̣n ánh sáng thông thường người ta gọi là “hào quang” của Phật.  Hào quang có phóng hay không phóng là một vấn đề khác cần phải học và hiểu  kỹ về Phật th́ người đệ tử Phật mới tránh được bệnh chấp ảo tưởng hoang đường.

Nội dung Kinh Pháp Hoa, về việc phóng ánh sáng (người đời thường linh thiêng hoá bằng cái từ “hào quang”) trước sau đức Phật sử dụng  ba lần khác nhau, để nói lên công dụng khác nhau về giáo lư  mà đức Phật muốn truyền đạt cho Pháp Hoa hải hội từng lúc khác nhau.

Ở phẩm Tựa này, đức Phật chỉ phóng ánh sáng từ điểm lông trắng chặng giữa đôi mày (chỗ huyệt ấn đường) soi sáng khắp một vạn tám ngàn thế giới chư Phật ở phương Đông.  Đại chúng xem thấy rơ việc làm của Phật trong sự nghiệp giáo hoá, thuyết pháp độ sanh.  Thấy rơ các chúng Thanh-văn tinh-tấn tu-hành  với pháp tứ-đế.  Thấy các Bồ-tát đang thực thi lục độ trên đường tự lợi, lợi tha.  Thấy rơ,  có đức Phật đang chuyển pháp luân.  Có đức Phật đang nhập Niết Bàn.  Có nơi trà tỳ thâu xá lợi… trên từ Trời Sắc cứu cánh  nh́n thấu suốt địa ngục  a-tỳ, lục đạo chúng sanh thông đồng trông thấy lẫn nhau…

Một điểm “hào quang” tức là một chút “trí tuệ” Phật mà khiến cho mọi người trong đại chúng có khả năng nh́n những sự việc trong một vạn tám ngàn thế giới…Vừa thấy vừa nghe như cận kề trước mắt.  Sự kiện này nhằm dạy cho toàn thể Pháp Hoa Hải Hội về “ Trí Tuệ Phật” về “Tri Kiến Như Lai”. Rằng khi con người đủ khả năng sử dụng “Trí Tuệ Phật” “ Tri Kiến Như Lai” th́ một vạn tám ngàn thế giới cũng chẳng có ǵ ngăn sông cách núi.

Phóng hào quang lần hai, đức Phật sử dụng hai điềm.  Một ở tướng bạch hào và một ở tướng vô-kiến-đảnh.  Hai điểm hợp lại, khiến cho đại chúng trông thấy  thế giới chư Phật nhiều như số cát 42 sông Hằng.

Phóng quang lần ba, ánh sáng phát ra từng lỗ chân lông Phật, toàn thể Pháp Hoa Hải Hội trông thấy Pháp Giới Nhất Chân.  Cơi nước trong mười phương không c̣n ranh giới nữa.

Thế cho nên giáo lư: “ chư pháp tương tức”  “ nhất đa tương dung” “đồng thời cụ túc tương ứng” cũng được  hiểu ở nơi sự kiện “phóng quang” nầy (xin đọc thêm Kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương cùng một biên dịch giả).  Để chứng minh sáng tỏ ư nghĩa đó, ta hăy đọc đoạn văng trùng tụng này:

… “ Ngă kiến Đăng Minh Phật

Bổn quang thụy như thử

Dĩ thị tri kiến Phật

Dục thuyết Pháp Hoa Kinh

Kim tướng như bổn thoại

Thị chư Phật phương tiện

Kim Phật “phóng quang minh”

Trợ pháp thật tướng nghĩa”...

Có nghĩa là: xưa kia tôi thấy Phật Đăng Minh, phóng hào quang giống như hiện giờ.  V́ vậy tôi biết hiện nay Phập sắp nói  kinh Pháp Hoa.  Điềm hôm nay y hệt điềm xưa.  Đó là phương tiện của chư Phật.  Nay Phật phóng hào quang, nhằm hỗ trợ cho sự diễn bày  “ thật tướng”.

Vậy, nói đến  “ hào quang” phải hiểu là “ Trí tuệ Phật”.  Tùy trường hợp sử dụng trí tuệ ít hay nhiều, toàn diện hay chưa toàn diện và tầm nhận thức chân lư, nhận thức thế giới rộng hẹp khác nhau.

Sự thông đồng giữa một vạn tám ngàn thế giới của chư Phật... và Lục Đạo chúng sanh, nền triết lư “một tâm đủ mười pháp giới” của đạo Phật, được Phật khai thị một cách kín đáo qua sự kiện phóng quang nầy.

Bồ tát Di Lặc không biết duyên cớ của sự hiện điềm, thay mặt đại chúng hỏi để t́m hiểu duyên cớ.  Bồ tát Đại Trí Văn Thù th́ giải đáp một cách tận tường, khúc chiết.  Kinh nêu ra sự kiện này, nhằm dạy cho người đệ tử Phật ghi nhớ và quan tâm đến vấn đề “ nhân quả” và vấn đề “ chủng tử ” trong quá tŕnh tu học ở thời đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa.  Đại Trí Văn Thù ngày nay là bồ tát Diệu Quang thời đó.  Ở thời kỳ Bồ tát Diệu Quang dạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho 800 đệ tử vững bước tiến tu trên đường Bồ-đề th́ Di Lặc lúc bấy giờ mang biệt hiệu là Bồ-tát Cầu Danh, thường biếng trễ trên đường tu học.

Gieo hạt giống trí tuệ sâu, sẽ thành cái quả “ Đại Trí ”.  Trồng cái nhân  biếng trễ kết quả chỉ là Từ Thị Di Lặc vậy thôi.

Giáo lư của kinh Pháp Hoa thuộc về pháp lớn, thứ pháp chỉ để dạy cho những người  có chủng tánh Đại Thừa, khác với giáo lư  dạy cho những hàng căn tánh Tiểu Thừa.  Phật nói kinh Pháp Hoa là tuông mưa pháp lớn; thổi c̣i pháp lớn, đánh trống pháp lớn.  Thứ giáo pháp mà người đời kho nghe, khó hiểu và khó tin.

Ở nơi phẩm Tựa của Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật đă cho Pháp Hoa Hải Hội biết về cái nguyên tắc chung của ba đời chư Phật thường làm.  Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cách hằng hà sa số kiếp trước đă làm, như vậy, hiện nay đức Phật Thích Ca cũng đang làm như vậy và Phật tương lai th́ cũng thế.  Lời nói của chư Phật là lời chân chính, chắc thật.  Lời nói trước sau như một, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, không hề có dụng ư lừa dối phỉnh gạt người nghe.

Về phương diện thuyết pháp giáo hóa chúng sanh th́ v́ hạng căn-cơ Thanh Văn Phật nói cho họ về pháp “ Tứ-diệu đế, hầu mong ra khỏi sanh tử; chứng đắc Niết Bàn”; vỉ hàng Duyên Giác nói cho họ về pháp“ Thập nhị nhân duyên ”; v́ hàng Bồ Tát nói pháp “Lục-ba-la-mật” khuyến cáo thẳng tiến lên Bồ-đề Vô Thượng thành tựu Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Sư Trí của ḿnh.  Đó là thông lệ của ba đời chư Phật, trong sự nghiệp hóa độ chúng sanh.

Vấn đề 20.000 đức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, pháp của đức Phật nói: ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành.  Phải hiểu vấn đề này, rằng: không những 20.000 mà 200.000 hay 200.000.000... đi nữa, pháp của các Phật nói ra cũng đều lành như vậy cả.  Danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh vừa là danh hiệu Phật và vừa biểu trưng “ Phật” là hiện thân chân lư muôn đời trong sáng cũng như sự soi sáng của vầng nhật nguyệt vằng vặc muôn đời...

Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh thứ 20 ngàn, xuất thân từ gia tộc nhà vua.  Tức nhiên là vinh hoa phú quư tột bậc.  Có tám con ngoan, tức nhiên có hoàng hậu hiền.  V́ muốn cầu quả Phật, Vô-thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, con đường duy nhất là phải xuất gia, xuất gia xả đi cái “ Ta”, cái  “ Trẫm” của một đấng quyền uy tối thượng, sanh sát trong tầm tay ấy và để phủi giũ hết  những cái sở hữu “ của ta”, mênh mông một thời giang san cẩm tú!  Bấy giờ, trước cảnh gió lộng trời  thanh, trong những đêm  trăng trong gió mát, nh́n giang san với tâm hồn thanh thoảng ngâm nga:

Nhất phái thanh thiên cảnh sắc u

Tiền nhân điền thổ hậu nhân thu

Hậu nhân thu đắc mạc hoan-hỉ

Ḥan hữu thu nhơn tại hậu đầu

(Một dải giang san cảnh đẹp thanh

Cơ đồ người trước kẻ sau giành

Người sau cướp được khoan mừng vội

Chẳng mấy lâu sau có gả tranh)

Thưởng thức được cái thi tứ đậm đà chân lư đó, th́ ngày thành Phật, sao mai dần dần ló dạng.

Xuất gia hành đạo, thực ra không phải chuyện ngẫu nhiên, mà mỗi  đều có nguyên nhân của nó.  Nguyên nhân có 2 thứ: “ Viễn nhân” và “Cận nhân”.  Người chỉ có “ Viễn nhân” th́ xuất gia trước, rồi chế ngự, bồi dưỡng uống nắng “ thức tâm” sau.  Người có “Cận nhân” th́ trau dồi chế ngự “ thức tâm” trước, sau đó đủ điều kiện mới xuất gia hành đạo.

Cha xuất gia tu hành, độ các con, đắc thành chánh quả.  Đấy là thể hiện theo nguyên tắc “ Viễn nhân”.

Ngược lại, con và vợ xuất gia tu hành độ vưa cha thành tựu đạo quả.  Sự thanh tịnh hóa “ thức tâm” trước, là thể hiện theo nguyên tắc “Cận nhân”.  Như trường hợp  Diệu Trang Nghiêm Vương (Phẩm thứ 27)

Thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa thời gian 60 tiểu kiếp, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh không rời chỗ ngồi mà Bồ tát Diệu Quang 800 tử đệ cùng đại chúng không hề mỏi mệt và với thời gian ấy mà tưởng chừng như  thời gian của một bữa ăn.  Điều này nói lên sự kết quả to lớn của người nói và người nghe.  Thể nhập “Pháp Hoa Tam Muội”, nhận thức được chân lư “Pháp Giới Nhất Chân” “Chư pháp tương tức, tương dung, tương ứng” th́ ngay điểm thời gian  hiện tại có đủ mười đời. “Thập thế cách pháp dị thành môn” v́ thời gian cũng tương tức, tương dung và tương ứng.  (Xin đọc thêm “Thập Huyền Duyên Khởi” có giảng rơ ở kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương cùng một biên soạn giả)

Sanh tử là việc b́nh thường, từ ngàn xưa, con người đă chấp nhận sự thật đó. Hễ có sanh tất phải có tử.  Chỉ khác nhau ở điểm chúng sanh th́ “Sanh tử b́ lao” đau đớn, khổ sở triền miên, v́ cái nhân đa dục.  C̣n Phật “Sanh thuận tử an” sống chết là thuận theo chân lư biến dịch tuần hoàn của vạn pháp, cho nên cái chết của Phật gọi là “ nhập Niết-Bàn”.

Vấn đề thọ kư cũng được báo trước trong ánh hào quang, để chuẩn bị tư tưởng cho đại chúng trong hội Pháp Hoa khỏi ngạc nhiên và bở ngỡ sau nầy.  V́ Phật sẽ thọ kư dài dài cho nhiều đối tượng, nói đúng hơn , cho tất cả mọi căn cơ.

Giáo lư kinh Pháp Hoa là thứ chân lư Đại Thừa liễu nghĩa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đă nói, Bồ tát Diệu Quang thuộc hàng đệ tử tiếp tục truyền bá kinh Pháp Hoa, dẫn dắt tám vị vương tử tu hành đều thành Phật.

Người nghe được kinh Pháp Hoa là người trồng sâu căn lành cho nên sớm muộn ǵ rồi cũng được thành Phật.  Một bồ tát có biệt hiệu là Cầu Danh , nghe qua là có thể biết đạo hạnh của vị bồ tát thế nào rồi.  Dù vậy, cũnh đă tiếp thu gieo giống Pháp Hoa cho nên hạt sen Pháp hoa đến thời Phật Thích Ca đă trổ bông bảy tám chục phần trăm mở bày cánh nhụy.

Văn Thù và Di Lặc trong cương vị Bồ-tát, có hơn kém nhau trong mức độ phần trăm nào đó, chỉ v́ khi gieo giống có trước sau, có nông sâu, từ khi cùng tu học dưới thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa ấy.

Thuật lại một sự kiện xưa để đoán định hiện tượng xảy ra hiện tại, để kết luận rằng: Phật sắp nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp  Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm , như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đă nói cách đây vô lượng hằng sa kiếp trước.

Trong sự kiện phóng quang ngầm tuyên cáo với tất cả chúng sanh hậu thế rằng những việc Phật nói, Phật làm trong kinh Pháp Hoa để dạy cho chúng sanh là việc của chư Phật quá khứ đă nói, đă dạy, đă làm.  Chẳng những thế, mà chư Phật vị lai cũng nói, cũng dạy và cũng làm như vậy.

Ánh sáng mặt trời nóng.  Ánh sáng mặt trăng mát, dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai th́ ai cũng nói như vậy thôi. !

 

   
   

Google

 

Send mail to webmaster@dieulienhoa.org with questions or comments about this web site.
Copyright © 2005 Dieu Lien Hoa  Last modified: 11/29/05