Phẩm 18: TUỲ-HỈ CÔNG-ĐỨC
Lúc bấy giờ Bồ-tát Di Lặc bạch Phật: “ Thế Tôn ! Nếu có thiện nam tử, thiện
nữ nhân nào nghe kinh Pháp Hoa mà ḷng vui đẹp ( tuỳ hỉ ) th́ những người ấy
đặng bao nhiêu phước đức?”
Phật bảo Bồ-tát Di Lặc: “ A-dật-đa ! Sau Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng hạng người trí khác, nghe kinh này mà ḷng
vui đẹp, rồi từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại nơi chư Tăng ở,
hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc nơi thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng rẫy, đem điều
đă nghe, tuỳ sức mà diễn thuyết cho cha mẹ, họ hàng, thiện hữu cùng nghe,
rồi những người này nghe xong dạy cho người khác. Những người khác nghe
xong, dạy cho những người khác nữa, như vậy cho tới người thứ năm mươi.
Này A-dật-đa ! Công đức nghe kinh vui đẹp của hàng thiện nam tử, nữ nhân thứ
năm muơi đó sẽ được như lời ta sắp nói đây, ngươi hăy lắng nghe.
Nếu có người làm hạnh bố thí, ban cấp những thứ cần dùng ngọc ngà, châu báu,
voi ngựa, xe cộ, cung điện, lầu gác cho vô lượng chúng sanh trong vô số thế
giới, suốt một thời gian là 80 năm. Tài thí như vậy xong rồi, vị thí chủ ấy
lại nghĩ đến việc đem Phật pháp ra mà dạy dỗ d́u dắt chúng sanh lúc ấy đă
già suy, tuổi quá 80, tóc bạc mặt nhăn, không bao lâu sẽ chết. Vị thí chủ
ấy liền nhóm chúng sanh giáo hoá, khiến chứng đặng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm hoặc A-la-hán. Ư ông nghĩ sao? Công đức của vị đại thí chủ đó có
nhiều chăng?
Bồ-tát Di Lặc bạch Phật: “ Thế Tôn ! Công đức của người ấy nhiều vô lượng vô
biên. Chỉ việc tài thí thôi đă là vô lượng rồi, hà huống c̣n pháp thí đến
đặng quả A-la-hán”.
Phật bảo Bồ-tát Di Lặc: “ Ta rành nói ngươi nghe nhé ! Công đức của vị thí
chủ ấy không bằng một trong trăm ngàn muôn ức phần công đức của người thứ
năm mươi nghe Kinh Pháp Hoa mà ḷng vui đẹp.
Này A-dật-đa ! Người nghe kinh Pháp Hoa thứ 50 mà c̣n được công đức tuỳ hỉ
vô lượng vô biên như thế, huống hồ hạng người nghe kinh lúc ban sơ ngay
trong Pháp hội.
Này A-dật-đa ! Nếu có người v́ ḷng muốn nghe kinh nầy mà đến chùa, hoặc
ngồi, hoặc đứng, dầu trong chốc lát để nghe nhận lời , người ấy có những
công đức nhờ đó mà sẽ tái sanh trong cảnh giàu có rồi sau lại lên thiên cung.
C̣n người nào, trong chỗ giảng kinh mà biết khuyên người đến sau ngồi nghe,
hoặc chia chỗ ngồi th́ người ấy, khi chuyển thân, đặng chỗ ngồi của Đế Thích,
Phạm Vương hay Chuyển Luân Thánh Vương.
A-dật-đa ! Nếu lại có người giới thiệu và khuyến khích người khác nghe giảng
kinh Pháp Hoa, và người được khuyên nhận lời đến nghe, dầu trong chốt lát,
th́ người giới thiệu và khuyến khích đặng công đức, khi chuyển thân, cùng
sanh một nơi với hàng Bồ-tát, đầy đủ “ tổng tŕ”, căn tánh bén nhạy, có trí
tuệ, trăm ngàn muôn đời chẳng hề ngọng câm, miệng lưỡi không hôi thối, môi
răng tốt đẹp, mặt mày đoan trang, mũi lớn cao thẳng.
A-dật-đa !Ngươi thử xem: khuyên một người đi nghe Pháp mà được công đức như
thế, hà huống một ḷng nghe, nói, đọc, tụng Kinh Pháp Hoa, lại trong đám
đông v́ người giải thích và tu hành đúng như lời nói trong kinh”.
THÂM NGHĨA
Khi thấy người khác làm một điều ǵ mà ḿnh đồng ư vui mừng tán thán hỗ
trợ, gọi đó là tuỳ hỉ. Tuỳ hỉ cũng có thể là tuỳ hỉ thiện và cũng có thể là
tuỳ hĩ ác. Về hành động thiện cũng như hành động ác, kinh điển thường chia:
Hoặc tự-tác hoặc giáo-tha-tác, hoặc kiến-tác tuỳ hỉ, có nghĩa là hoặc tự
ḿnh làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy ai làm tuỳ hỉ tán thành. Tuỳ hỉ tác
là gián tiếp giáo-tha-tác; giáo-tha-tác là gián tiếp tự-tác. Thế nên tuỳ hỉ
cũng có thể mắc tội lớn, nếu tuỳ hỉ với những điều ác, người ác. Tuỳ hỉ
kinh điển Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là một tuỳ hỉ thiện, tuỳ hỉ với chân
tâm, với Phật tri kiến ḿnh, nên phước đức lớn lao, không thể dùng ngôn từ
tán thán, dùng tỉ lệ so sánh được.
Vậy tuỳ hỉ là tùy hỉ những ǵ ở kinh Dịêu Pháp Liên Hoa?
Tuỳ hỉ rằng: Kinh Dịêu Pháp Liên Hoa là Kinh Đại Thừa viên giáo liễu
nghĩa. Ba đời chư Phật chỉ nói kinh Pháp Hoa trước giờ phút sắp nhập Niết
Bàn để rồi thọ kư cho tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. (Phẩm Tựa thứ 1)
Tuỳ hỉ rằng: Chư Phật Như Lai ra đời chỉ v́ một đại sự nhân duyên:
·
Giới thiệu (Khai) tri kiến Phật của chúng
sanh cho chúng sanh biết.
·
Chỉ ( Thị) tri kiến Phật của chúng sanh cho
chúng sanh thấy.
·
Hướng dẫn chúng sanh hiểu kỹ (Ngộ) về tri
kiến Phật của ḿnh
·
Dạy cho chúng sanh sống bằng ( Nhập) tri kiến
Phật của ḿnh vốn có. V́ vậy, kinh nói: “ Tất cả chúng sanh đă thành Phật”
(Phẩm Phương Tiện thứ 2)
Tùy hỉ rằng: Giáo lư của ba đời chư Phật đều dạy cho chúng sanh pháp Nhất
Thừa. Hễ tu hành là thành Phật. Thanh Văn , Duyên Giác thừa chỉ là xe dê,
xe nai; Ông Trưởng Giả phương tiện nói đó thôi. ( Phẩm Thí Dụ thứ 3)
Tùy hỉ rằng: Phật và chúng sanh cùng ở một nguyên quán: Như Lai viên giác
diệu tâm; cũng như đứa con hoang cùng ông Trưởng giả vốn là cha con ruột,
cùng ở trong cảnh gia đ́nh một cự phú hào. Con v́ bỏ cha, bỏ nhà đi hoang
nên đói khổ lang thang lưu lạc. Ngày trở về nhận được cha, th́ con hưởng
trọn cái gia tài cự-phú-hào vô tận ấy. Chúng sanh không biết ḿnh có Phật
chất đành cơ cực sống với tâm trạng đau khổ của vô minh. Ngày tỉnh ngộ quay
về sống bằng tri kiến Phật của ḿnh th́ Bồ-đề Niết Bàn là sự nghiệp chung mà
tất cả chúng sanh có quyền thừa hưởng trọn. (Phẩm Tín Giải thứ 4)
Tuỳ hỉ rằng: Sự thật trước sau, Phật chỉ dạy cho tất cả đệ tử của ḿnh về
phát Đại Thừa. Nhưng tuỳ căn cơ chủng tánh, nghe ra có Tiểu, có Trung, có
Đại khác nhau. Như một trận mưa tuôn chỉ có một vị đượm nhuần mát mẻ, thế
mà cây cổ thụ, cây lựu, cây lê, cây lúa mạ tuỳ sức hấp thụ mà giống cây có
to, có vừa, có bé không đồng. (Phẩm Dược Thảo Dụ thứ 5)
Tuỳ hỉ rằng: Ông Xá-lợi-phất là người đầu tiên trong hàng Thanh Văn được
thọ kư thành Phật. Giờ đây ông Đại-ca-diếp, ông Tu-bồ-đề, ông Ca-diên-chiên,
ông Mục-kiền-liên cũng được thọ kư thành Phật. V́ sự thọ kư không phải là
sự thi ân riêng lẻ của Phật dành cho người đệ tử dễ thương nào. Cũng không
phải là lời tiên tri may rủi hay ước lượng, dự đoán, phỏng chừng. Mà thọ-kư
là nói lên một sự thật tất yếu tất nhiên vốn vậy của tất cả mọi người. Cho
nên rồi đây 500 đại đệ tử cũng sẽ được thọ kư. Những người hữu học, vô học
cũng được thọ kư. Nói thẳng ra, tất cả chúng sanh đều được thọ kư thành
Phật với cái vốn liếng Phật tánh sẵn có của ḿnh. ( Phẩm Thọ Kư thứ 6, 8, 9)
Tuỳ hỉ rằng: Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là kinh giáo Bồ-tát pháp, Phật
sở hộ niệm. Tu học Diệu Pháp Liên Hoa kinh, mới đi cuối con đường Phật, mới
đến nơi Bảo-sở. Không tu học kinh Pháp Hoa, dù có được Niết Bàn nhưng đó là
hoá thành, đó là quyền biến phương tiện của một đạo sư… (Phẩm Hoá Thành Dụ
thứ 7)
Tuỳ hỉ rằng: Những người thọ tŕ, đọc tụng, biên chép, giảng nói, và tuỳ
hỉ kinh Diệu Pháp Liên Hoa đều được gọi là Pháp sư. Họ không phải là người
thường, v́ người thường không thể nghe, không thể chấp nhận nổi kinh nầy.
Họ là những người được Phật thọ kư thành Phật, được Như Lai lấy y mà trùm,
lấy tay mà xoa đầu. Họ là sứ giả Như Lai. ( Phẩm Pháp Sư thứ 10)
Tuỳ hỉ rằng: Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ, Đa Bảo
Như Lai và Tháp là Phật phát thường trụ về mặt thời gian. Phân-thân Phật
nhiều bất khả thuyết, bất khả thuyết vô lượng vô biên a-tăng-kỳ hằng hà sa
của Thích Ca Mâu Ni Phật và cây báu… là Phật pháp thường trụ về mặt không
gian đó… (Phẩm Hiện Bảo Tháp thứ 11)
Tuỳ hỉ rằng: Đề-bà-đạt-đa thuộc hạng “ Nhứt xiển đề” mà được thọ kư thành
Phật, th́ tất cả chúng sanh không phải “ Nhứt xiển đề” thừa khả năng tu hành
thành Phật. Long nữ thành được Phật th́ tất cả người nữ thừa khả năng tu
hành thành Phật. (Phẩm Đề-bà-đạt-đa thứ 12)
Tuỳ hỉ rằng: Tŕ kinh Pháp Hoa ở cơi Ta-bà có khó khăn nhưng có sức cố
gắng, có khả năng, có phát tâm dũng mănh vẫn làm được, như Bồ-tát Dược Vương
và Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết đă phát nguyện tŕ. (Phẩm Tŕ thứ 13)
Tuỳ hỉ rằng: Hành xứ, thân cận xứ, an lạc hạnh, đại bi tâm là bốn điều
kiện cần có để cho Pháp sư Pháp Hoa hoàn thành công hạnh tự lợi, lợi tha
viên măn. (Phẩm An Lạc Hạnh thứ 14)
Tuỳ hỉ rằng: Khả năng tu tập của ḿnh là nhân tố quyết định thành công.
Đừng hy vọng trong nhờ ở tha nhân nào khác. Nếu có sự giúp đỡ của tha nhân
bằng tám lần thành công, th́ sự cố gắng nổ lực của ḿnh gấp 12 vạn lần hơn
hảo ư của tha nhân cảm t́nh giúp đỡ. Phải phát triển nghị lực sẳn có của
chính ḿnh và sự thật , mỗi người đều có khả năng nghị lực đó. (Phẩm Bồ-tát
Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15)
Tuỳ hỉ rằng: Thọ Mệnh Như Lai vĩnh cửu ở thời gian vô tận,
không gian vô cùng. V́ “ Như Lai giả tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu
nhơn ngôn: Như Lai nhược lai, nhược khứ , nhược toạ, nhược ngoạ, thị nhơn
bất năng giải ngă sở thuyết nghĩa. Như Lai giả vô sở tùng lai, diệt vô sở
khứ, cố danh Như Lai”. ( Phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16)
Tuỳ hỉ rằng: Hiểu kỹ, hiểu đúng, ư thú về Như Lai Thọ Lượng tức là hiểu
kỹ, hiểu đúng về Phật tánh, về Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của ḿnh.
Phát hiện trong quặng có vàng, sẽ nấu lọc quặng để lấy vàng. Biết ḿnh
có Như Lai Viên Giác Diệu Tâm sẽ gạn lọc cặn bă vô minh để lấy Phật tánh. (Phẩm
Phân Biệt Công Đức thứ 17)
Tuỳ hỉ rằng: Nghe Kinh Pháp Hoa mà sanh tâm vui mừng, tâm đắc là người
không phải tầm thường. Nghe rồi thọ tŕ, đọc tụng, biên chép, giảng nói và
tuỳ hỉ, khuyến khích cho nhiều người cùng nghe, cùng tu học là Bồ-tát hạnh
đă trưởng thành vượt bậc rồi. Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác với người
nầy chẳng c̣n xa. Người nầy đang ngồi toà Bồ-đề dưới bóng cây đạo. (Phẩm
Tuỳ Hỉ Công Đức thứ 18)
Tuỳ hỉ rằng: Kinh Pháp Hoa là kinh tối tôn tối thượng. Những ngừơi thọ
tŕ, đọc học, biên chép, giảng nói, và vui mừng tâm đắc với Kinh Pháp Hoa
sẽ được công to và phước đức rất nhiều. Tất cả đều được tôn vinh là “ Pháp
sư”.
Pháp sư Pháp Hoa là người có thể có được “ Lục căn thanh tịnh” mà không
cần thay đổi, huỷ bỏ “ lục căn vốn có của cha mẹ sanh ra”.
“ Lục căn thanh tịnh” th́ “ lục trần” “ lục thức” của Pháp sư Pháp Hoa
cũng đều được thanh tịnh như vậy. (Phẩm Pháp Sư Công Đức thứ 19)
Tuỳ hỉ rằng: Câu nói của Bồ-tát Thường Bất Khinh : “ Tôi
không dám khinh các Ngài, rồi đây tất cả các Ngài đều sẽ làm Phật”. Câu
nói đó là một âm vang sấm sét, réo gọi, thức tỉnh những ai c̣n mê mệt mơ hồ
về Tri Kiến Phật và khả năng thành Phật của ḿnh. Trong tất
cả thứ ngạo nghễ, khinh khi, khinh khả năng thành Phật của ḿnh là thiệt
tḥi lớn lao hơn hết. Chàng Cùng-Tử sở dĩ đói khổ lang thang chỉ v́ “
khinh ḿnh” , v́ không nhận biết ở vạt áo ḿnh có viên ngọc minh châu vô giá.
Ngày phát hiện ra viên bảo châu là ngày ḿnh trở thành cự phú nhất đời. (Phẩm
Thường Bất Khinh Bồ-tát thứ 20)
Tuỳ hỉ rằng: Phật chỉ là một con người. “ Thành Phật” là người đạt đến
đỉnh cao vô thượng của trí tuệ. Nhận thức bằng “ Phật tuệ” th́ “ Pháp giới
bất nhị”. Quán sát bằng “ Phật nhăn” th́ “ Pháp giới nhất chân”.
Ngày thành Phật là ngày toàn thân con người trở thành một khối “ trí tuệ”
sáng suốt vén tan hết bóng tối vô minh trong mười phương quốc độ. Kinh nói:
“ Toàn thân Như Lai từng lỗ chân lông, phóng hào quang…” (Phẩm Như Lai Thần
Lực thứ 21)
Tuỳ hỉ rằng: Giá trị Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ngang bằng với giá trị của
quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Giữ ǵn Kinh Pháp Hoa là giữ ǵn quả
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Truyền bá Kinh Pháp Hoa cho tất cả chúng
sanh tức là truyền trao quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho chúng sanh
vậy.
Kinh Pháp Hoa là nền giáo lư cô đọng của công tŕnh tu tập trải qua trăm
ngàn muôn ức A-tăng-kỳ kiếp mà nên , tu học kinh Pháp Hoa tức là tu học về “
Nhất thiết trí”, “ Vô sư trí”, “ Tự nhiên trí” và “ Phật tuệ vô thượng”.
Là Bồ-tát , đệ tử Phật gần gũi, đọc học, biên chép, giảng nói và truyền
bá Kinh Pháp Hoa là cách đền đáp thâm ân Phật cao quí nhất
“ Trong tất cả cung cách cúng dường, cúng dường “ Pháp” là ưu việt hơn
hết” (Phẩm Chúc Lũy thứ 22)
Tuỳ h́ rằng: Ví như người bệnh phải cầu thuốc để trị bệnh. Người tu tự
coi ḿnh là người đang mắc phải chứng bệnh vô minh. Muốn trị dứt chứng bệnh
vô minh phải trăi qua quá tŕnh điều trị bằng “ thuốc Pháp” . “ Vi-rút chấp
ngă” và “ chấp pháp” là loại “ vi-rút” cực kỳ nguy hiểm. Từ đó sanh nhiều
biến chứng: “ tam độc”, “ ngũ cái”, “ thập triền” khiến cho chúng sanh đắm
ch́m lặn hụp trong ái hà, khổ hải, ưu bi..
Muốn được giác ngộ và giải thoát phải bồi dưỡng thiện pháp lâu dài cũng
như phải hoá giải diệt trừ ác pháp lâu dài và cuối cùng phải tiêu hoá chúng
với thời gian lâu dài cho đến khi nào cái chất “ ngă tướng”, “ nhân tướng”…
tàn rụi hết mới thôi… (Phẩm Dược Vưong Bồ-tát Bổn Sự thứ 23)
Tuỳ hỉ rằng: Hễ sử dụng Phật tuệ th́ “ Pháp giới bất nhị” cho nên thế
giới “ Nhất Thiết Tịnh Quang trang nghiêm” của đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương
Trí hiệnra không xa.
Diệu Âm Bồ-tát là “ nhân cách hoá” cái “âm thanh mầu nhiệm của cơi ḷng
thanh tịnh.” Do vậy, khi cơi ḷng thanh tịnh th́ “ cơi đất tâm” đẹp đẽ trang
nghiêm thanh tịnh.
Diệu Âm Bồ-tát đến cơi Ta-bà th́ cơi Ta-bà đẹp đẽ trang nghiêm thanh tịnh.
Diệm Âm Bồ-tát trở về bản độ th́ cơi Ta-bà trở lại trạng thái uế độ như cũ.
(Phẩm Diệm Âm Bồ Tát Văng Lai thứ 24)
Tuỳ hỉ rằng:
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải triều âm
Thắng bỉ thế gian âm
Thị cố tu thường niệm
Niệm niệm vật sanh nghi
Quán Thế Âm tịnh thánh
Có nghĩa là Diệu Âm Quán Thế Âm. Quán Thế Âm tức Diệu Âm, chỉ khác ở chỗ
Diệu Âm có lúc đi đến, có lúc trở về c̣n Quán Thế Âm th́ giữ lại không đến
không đi. Do vậy, niệm Quán Thế Âm liên tục là cách tu ưu việt hơn hết.
Cho nên “Quán Thế Âm là Thánh của sự thanh tịnh”.
“… Phật xuất Ta-bà giới
Thử phương chân giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn
Dục thử tam-ma-đề
Thực tùng văn trung nhập”
(Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn thứ 25)
Tuỳ hỉ rằng: Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là tạng bí yếu của chư Phật.
Tu học theo kinh Pháp Hoa là tu học viên giáo liểu nghĩa thượng thừa. Sống
theo Kinh Pháp Hoa là sống theo chân lư, sống đúng chân lư. V́ vậy mà các
hàng Bồ-tát, Thiên Vương, Ma Vương, phát nguyện đem hết khả năng ḿnh để hộ
tŕ kinh , bảo hộ cho những ai thọ tŕ đọc tụng, truyền bá kinh bằng những
“Đà-la-ni” mà họ có.
“Đà-la-ni” là một thứ ngữ ngôn phủ định ngữ ngôn. Thứ ngữ ngôn “ ngôn
ngữ đạo đoạn”. Thứ ngữ ngôn nhằm đưa hành giả Pháp Hoa lên đỉnh cao “ tâm
hành xứ diệt”. (Phẩm Đà-la-ni thứ 26)
Tuỳ hỉ rằng: Bồ-đề tự tánh, ai cũng có thể trở về để thành Phật, nhưng
việc thành Phật không mong cầu nóng vội, mà phải đoạn trừ phiền năo có quá
tŕnh, chứng nhập “ pháp thân” từng phần, sự giác ngộ giải thoát tiệm tăng
từng mức độ. Vua Diệu Trang Nghiêm cách đây vô lượng kiếp, nay là Hoa Đức
Bồ-tát. Tịnh Tạng, Tịnh Nhăn, xưa kia nay là Bồ-tát Dược Vương và Dược
Thượng
Ở phẩm “ Tựa” thứ nhất, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh vốn là một nhà vua có
tám người con. Nhà vua xuất gia tu thành Phật, sau đó độ cho tám người con
ở trong Phật pháp làm nhiều phật sự.
Ở phẩm “ Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự” thứ 27, Tịnh Tạng và Tịnh Nhăn
hai người con xuất gia hành đạo chứng đắc tự tại thần thông rồi độ cho vua
cha xuất gia tu hành thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cải tạo A-lạy-da trước, chuyển hoá tiền thất thức sau hoặc chuyển hoá
tiền thất thức trước, cải tạo A-lạy-da sau. Cách tu nào cũng đem lại kết
quả được, tuỳ căn tánh của mỗi người. (Phẩm Diệu Trang Nghiêm
Vương Bổn Sự thứ 27)
Tuỳ hỉ rằng: Thọ tŕ, đọc, học Kinh Pháp Hoa là bồi dưỡng cái trí “ năng
tri”. Đem lại cho con người sự giải thoát, giác ngộ cốt yếu là ở nơi cái đức
“ năng hành”.
Bồ-tát Đại Trí Văn Thù tiêu biểu cho cái trí “ năng tri” xuất hiện ở phẩm
thứ nhất để khai đạo giáo nghĩa Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa.
Bồ-tát Đại Hạnh Phổ Hiền cuối cùng mới xuất hiện để động viên tinh thần “
hành giả Pháp Hoa” với cái nhan đề “ Phổ Hiền khuyến phát” thứ 28.
Điều đó nói lên: Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa không phải là thứ kinh
để cho mọi người đọc tụng được phước, hợp nhất mới đem lại kết quả lớn lao.
Tóm lại, Tuỳ Hỉ Kinh Pháp Hoa có nghĩa là vui mừng chấp nhận nội dung, tư
tưởng toàn bộ giáo lư của hệ tư tưởng Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa để làm kim
chỉ nam cho tiến tŕnh tu tập của ḿnh và trọng yếu đạt đến thành công là :
“ Tri hành hợp nhất”. ( Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến
Pháp thứ 28).
|