PHẨM 4:
TÍN GIẢI
Ông Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Đại-ca-diếp, Mục-kiền-liên thấy
Phật thọ kư cho Xá-lợi-phất sẽ được thành Phật vui mừng hớn hở và phát khởi
ḷng tin kiên cố, rằng rồi đây ḿnh sẽ được thành Phật. Ở trước Phật, các
ông cùng nói lên lời tự trách rằng chúng con từ lâu đă tự cho rằng ḿnh đă
được Niết Bàn và tự thấy đă thơa măn với pháp thiền: Không Vô Tướng,
Vô Tác của Tiểu Thừa, không có ư chí tiến leyn cầu quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Để chứng minh sự “tin hiểu” của ḿnh, các đại đệ tử này xin nói một thí dụ:
Có một người, lúc nhỏ bé đă bỏ nhà bỏ cha đi hoang sau mấy mươi năm rày đây
mai đó phiêu bạt, lại thêm nghèo khổ rách rưới lang thang, phải đi xin mà
độ nhật. T́nh cờ chàng ta trở về đến xứ sở mà không hay biết.
Thời gian ấy cha của chàng t́m con khắp nơi mà không gặp. Ông là Trưởng Giả
một nhà giàu lớn, châu báo đầy kho, tàn sản vô lượng, trai trai tớ gái đầy
nhà. Ông chẳng những là một nhà giàu trong nước mà c̣n là người giao dịch
thương mại lớn của cải vô số ở khắp nhiều nước khác.
Không nói với ai về việc cha con ly biệt, ông thường suy nghĩ: Ta nay giàu
có thế này mà con không có, một mai chết đi th́ sự nghiệp nầy giao phó cho
ai, chắc phải mất hết. Ước ǵ ta gặp được con giao phó gia tài cho nó th́
lúc chết được an ḷng.
Một hôm đứa con lạc loài t́nh cờ đến trước nhà cha mà không biết. Đứng ng̣ai
cổng ngó vào, thấy Trưởng Giả sang trọng uy nghiêm, đang ngồi trên ghế cao,
xung quanh có đông người hầu hạ, trong nhà th́ ngọc ngà châu báo không biết
bao nhiêu. Chàng ta đâm hốt hoảng thầm nghĩ là ḿnh bị lạc đến chỗ vua chúa.
Nghĩ vậy, chàng sợ bị bắt, lén bỏ đi t́m một xóm nghèo hợp với t́nh cảnh
chàng đề kiếm việc làm lấy tiền độ nhật.
Nhưng Trưởng Giả đă thấy và nhận biết chàng cùng tử ấy là con ḿnh. Ông
liền sai hai gia nhân theo bắt chàng lại.
Bị bắt, chàng ta sợ quá, van xin mà không được tha, chàng ngă xuống đất chết
ngất.
Ông Trưởng Giả thấy vậy ra lệnh: Thôi ta không cần con người ấy nữa đâu, hăy
lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh rồi cho đi, đừng nói ǵ với nó nữa.
Biết con ḿnh quen sống với cảnh nghèo hèn, ty tiện nay nếu đột nhiên nhận
nó làm con ḿnh và ḿnh lại giàu sang tột bậc, chắc chắn nó không tin mà
c̣n đem ḷng sợ sệt. Chi bằng thả nó đi rồi lập kế mà dẫn dụ nó.
Ông Trưởng Giả mật sai hai người giả dạng bần khổ, t́m đến anh chàng cùng
tử, rủ đi làm thuê với công việc hốt phân. Khi nghe biết được trả công gấp
đôi, chàng cùng tử nhận lời và cả ba vào làm việc hốt phân, ở nhà sau vườn
ông Trưởng Giả.
Thấy con tiều tụy phân đất bẩn thỉu khắp người, Trưởng Giả thương xót quá,
ông thay bỏ áo quần tốt đẹp sang trọng, mặc đồ thô rách lắm nhơ để lân la
với ba người hốt phân. Một hôm Trưởng Giả bảo chàng cùng tử: Anh này, nên
tiếp tục làm việc ở đây đừng đi đâu nữa. Ta sẽ thêm tiền công cho. Nhà ta
giàu có của cải vô số muốn cần dùng ǵ tùy ư ta sẽ thuận cho hết. Từ nay về
sau cứ xem như con đẻ của ta và hăy gọi ta là cha nhé! Nói xong ông Trưởng
Giả gọi chàng cùng tử bằng con. Chàng ta rất mừng, nhưng chàng vẫn tự đặt
ḿnh là kẻ hạ tiện làm thuê.
Ít lâu sau, ông Trưởng Giả có bệnh cho kêu anh chàng đến, giao cho anh việc
quản lư gia tài và cho anh được quyền xuất nhập bất cấm trong nhà. Anh làm
tṛn bổn phận, nhưng không bao giờ dám tiêu xài quá số tiền công nhật của
anh. Ở th́ cũng ở nhà sau, chỗ cũ không dám tự tại lui tới nhà trên.
Thời gian lâu sau, Trưởng Giả biết ḿnh sắp ĺa trần, và đứa con nay đă
thông minh có chí lớn. Ông bèn gọi hết thân tộc, trước mặc vua quan, ông
chỉ chàng cùng tử mà tuyên bố: Anh này là con ruột của tôi. Bây lâu xa cách,
v́ nó bỏ nhà ra đi từ lúc bé. Nay cha con chúng tôi được trùng phùng, tôi
giao cho nó tất cả gia tài của tôi mà trước đây nó đă quản lư và biết rơ.
Người con nghe nói mừng quá, cho là việc chưa từng có và tự nghĩ: “ Ta vốn
không có ḷng mong cầu, nay kho tàng châu báu này tự nhiên mà đến”.
Nói câu chuyện “thí dụ” xong, ông Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên… bạch Phật:
Ông Trưởng Giả ví như đức Như Lai, c̣n chúng con th́ như chàng cùng tử, thất
lạc bỏ cha bỏ nhà… Như Lai là cha, chúng con là con Phật mà không biết.
Chúng con v́ ba món khổ mà trong cảnh sanh, già, bệnh, chết, khổ năo, sầu
lo, chịu các sự mê lầm, ngu dốt cho nên ưa thích giáo pháp Tiểu Thừa làm cái
việc hốt phân tầm thường mà tự cho là thỏa măn với cái giá trả công : Niết
Bàn
Như Lai không “bắt”, không cưỡng bức chúng con đi theo con đường: Tất
cả đều có phần hưởng thọ kho tàng tri kiến Như Lai mà tha
cho chúng con theo ư chí thấp hèn, rồi phương tiện thuận theo chúng con mà
lần lần dạy bảo.
Chúng con là con của Phật mà không biết. V́ không biết nên không dám mong
hưởng thọ cái sự nghiệp, cái gia tài vĩ đại của cha là Phật mà chỉ cam phận
với số tiền làm thuê Nhị Thừa. Ấy tại v́ chúng con không dám nhận ḿnh là
con Phật nên Phật cũng không thể tự nhận là cha (không thể dạy pháp Đại Thừa)
Nay th́ kho tàng pháp bảo vô giá của pháp vương lại tự nhiên mà đến, không
mong cầu mà được.!
THÂM NGHĨA
Tín là đức tin, phát khởi ḷng tin.
Giải là hiểu rơ, là tiếp thu nhận thức được lời Phật, ư kinh.
Nội dung phẩm Tín-Giải có hai ư chánh:
·
Trước Phật, ông Tu-bồ-đề, ông Đại-ca-diếp… xin được nói lên
nỗi vui mừng và ḷng hối hận của ḿnh trong những thời gian trước, đối với
giáo lư Đại Thừa.
·
Xin được nói một thí dụ tŕnh lên Phật về sự tiếp thu và
“tin hiểu” vững chắc của ḿnh
Nhận thức được thế nào là phương tiện, thế nào là cứu cánh qua lời dạy
của Phật, ông Tu-bồ-đề và Đai-ca-diếp rất vui mừng. Trước Phật các ngài nói
lên sự ăn năn tự trách, rằng từ lâu nay chỉ biết ham học pháp Tiểu Thừa,
trước hiện tượng vạn pháp thường quán niệm Không, Vô Tướng, Vô Tác.
Với giáo lư xây dựng cơi Phật thanh tịnh, hóa độ chúng sanh, ḥa quan đồng
sự của Bồ tát hạnh, không có ḷng ưa thích. Nay nghe được hàng Thanh Văn sẽ
được thành Phật, ḷng vui mừng vô hạn. Chẳng khác nào vô lượng trân bảo
không cầu mà được.
Đến đây, sự chuyển biến nội tâm và ư chí hướng thượng của Nhị-thừa, không
c̣n là ư niệm cá biệt. Ông Tu-bồ-đề thay lời đại chúng xin được nói lên cái
thí dụ Cùng Tử để tŕnh lên Phật về Tín Giải
của Nhị thừa, nói lên quá tŕnh tiếp thu tin hiểu của hàng Thanh Văn đă thâm
hậu kiên cố.
Cùng Tử là đứa con bần cùng cơ cực. Bần cùng cơ cực v́ bỏ cha, bỏ
nhà đi hoang, cho nên cùng-tử cũng có nghĩa là “đứa con hoang”.
Bỏ cha bỏ nhà ra đi hoang có nghĩa là trước đây cha con cùng ở chung một
chỗ một nhà. Chỗ đó là Viên Giác Diệu Tam Thanh Tịnh Như Lai.
Tất cả chúng sanh và Phật đều cùng một nguyên quán. Nói khác đi, nghĩa là
cùng một bản thể chân tâm thanh tịnh sáng suốt tṛn đầy mầu nhiệm. Nhưng từ
khi bất giác, sống trái với chân tánh, bấy giờ am-tế (1), lục-thô (2) diễn
biến theo một tiến tŕnh liên lục nghiệp thức. Khi cảm thọ sắc thân “nghiệp
hệ” th́ lục trần trở thành đối tượng có sức hấp dẫn cuốn lôi. Từ đó, bỏ nhà
Viên Giác, xa đấng cha lành thành đứa con hoang, làm chàng “cùng tử”! một
chút trí tuệ không có, đành chịu xoay vần lưu lạc.
Cha lúc nào cũng nhớ con, t́m con với ước mong tha thiết là giao hết cho
con cái gia tài vô giá của ḿnh, trước ngày nhắm mắt. Phật ra đời v́ chúng
sanh, tất cả cho chúng sanh, không lúc nào xao lăng nguyện vọng truyền trao
trọn vẹn cho chúng sanh cái Tri Kiến Phật mà chúng sanh vốn có,
trước khi nhập Niết Bàn.
Cha bỏ xứ đi t́m con, chỉ cái việc Phật xuất thế, hạ trần v́ chúng sanh
mà vào đờ ngũ trược.
Khi cha con gặp nhau th́ quá cách biệt. Cha th́ giàu có tột bậc, con th́
nghèo khổ rách rưới lang thang. Cha biết rơ con mà con th́ tự thấy ḿnh
quá hèn, quá thấp, không dám ngó th́ c̣n nói chi tới việc nh́n cha. Phật
xuất thế t́m đến chúng sanh nhưng Phật th́ Chánh Biến Tri Giác Vô Thượng,
c̣n chúng sanh th́ vô minh dày đặc, nghiệp chướng nặng nề, một chút chánh
kiến không có, th́ ai mà dám bảo ḿnh là con của Phật (Phật tử). Ai dám
nghĩ rằng ḿnh có quyền thừa hưởng kho tàng pháp bảo của Như Lai?
Đó là lư do, phát xuất từ ư nghĩa không chánh lư nhưng v́ đó mà chúng
sanh thường nảy sanh ư nghĩ tự khinh.
Cha biết con ḿnh quen đời sống ăn xin bần tiện, không sao chuyển hóa tư
tưởng nhanh chóng được, ông dùng kế mật, sai hai người tiều tụy không oai
đức t́m rủ con ông vào nhà mướn làm cái việc ti tiện là hốt phân. Người con
th́ rất bằng ḷng nhận lấy việc làm nầy.
Cũng vậy, Phật biết chúng sanh thường sống trong vô minh, phiền năo,
nghèo nàn trí tuệ, không thể dạy thẳng cho chân lư Nhất thừa.
Không thể nói rằng tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành, cho nên phải phương
tiện nói có hai thừa sai hai người không uy đức làm môi giới dẫn dụ chúng
sanh cùng tử lần theo vào nhà Tri Kiến Phật, nhưng chàng cùng
tử th́ rất bằng ḷng làm cái việc hốt phân ti tiện để đổi lấy giá tiền công
nhật ít xịt của chính cha ḿnh.
Muốn gần con để lần hồi dạy bảo dẫn dụ, cha đổi quần áo sang trọng, mặc
áo bả trỉn dơ, ví cho Phật hiện ứng thân hạ liệt để gần gũi chúng sanh trong
đời ngũ trược.
Gặp được con, cha khuyến khích làm việc, ví như Phật nhắc nhở tinh tấn tu
hành. Hứa ban thưởng xứng đáng, muốn ǵ được nấy, ví như Phật hứa cho Niết
Bàn của Tiểu Thừa để cho chúng sanh quen dần, lần hồi sử dụng châu báu trí
tuệ trong cái gia tài đồ sộ Tri Kiến Phật.
Cha có bệnh gọi con giao gia tài cho quản lư, như Phật đem Tri
Kiến Phật ra dạy bảo tu tập. Nhưng co không dám dùng, cũng như không
có ư muốn dùng, đó là ḷng ḥai nghi của tất cả chúng sanh, đối với khả năng
thành Phật của ḿnh.
Đến giờ sắp chết cha hội thân tộc tuyên bố chàng cùng tử là con ruột và
trao cho tất cả sản nghiệp, bấy lâu nay tập cho chàng thu xuất nay đă thông
thuộc, ví như khi sắp nhập Niết Bàn trong một hội Pháp Hoa Phật thọ kư:
Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Kho tàng pháp bảo vô giá mà bấy
lâu nay dạy dỗ, tập cho sử dụng, nay trao trọn cho tất cả chúng sanh, con
Phật.
Con vui mừng nghĩ thầm: kho tàng trân bảo vô giá này, ta không cầu mà có,
tự nhiên mà được! Chân lư th́ không phải vậy. Tri Kiến Phật, Như
Lai Viên Giác Diệu Tâm là cái tất cả chúng sanh vốn có.
(1) Tam tế:
1. Vô
minh nghiệp tướng
2. Năng
kiến tướng
3. Cảnh
giới tướng
(2) Lục thô:
1. Trí
tướng
2. Tương
tục tướng
3. Chấp
thủ tướng
4. Kế
danh tự tướng
5. Khởi
nghiệp tướng
6.
Nghiệp hệ khổ tướng
|