PHẨM 3: THÍ DỤ
Lúc bấy giờ ông Xá-lợi-phất hớn hở vui mừng, đứng dậy cung kính chấp tay
chiêm ngưỡng dung nhan Phật và bạch rằng: “ Hôm nay con được nghe những điều
Phật dạy, ḷng con hân hoan chưa từng có. Bao nhiêu nghi ngờ của con đă hết.
Trước kia con thường nghĩ ngợi và tự hỏi: Phật cũng ở trong Pháp tánh như
ḿnh, có sao Phật được là Phật, c̣n ḿnh th́ lại không? Cớ sao Như Lai lại
đem pháp “Tiểu Thừa” mà dạy cho? Cớ sao các Bồ tát được thọ kư thành Phật,
c̣n ḿnh chẳng được dự vào việc đó? Con tự cảm thương ḿnh! Chẳng lẽ ḿnh
mất hết vô lượng Tri Kiến Phật , mất hết khả năng thành Phật hay sao?”
Nay nghe Phật dạy, con mới hiều rằn, lỗi tại chúng con, v́ mê mờ thiển cận,
vừa được nghe pháp phương tiện là đă vội ham, tư duy tu tập để cầu chứng đắc.
Nay con đă hiểu rơ, rằng giáo lư Tiểu thừa là “pháp phương tiện” tùy nghi
dẫn dụ của Như Lai. Dù “chứng đắc Niết Bàn” nhưng chưa hoàn toàn diệt độ.
Giờ đây con rất sung sướng tự biết ḿnh là con thật của Phật. Từ kim khẩu
Phật sanh ra, từ pháp hóa của Phật sanh ra, con được dự phần trong “ Phật
tánh và Pháp tánh” vô thượng.
Ông Xá-lợi-phất thưa tiếp: “ Lúc mới nghe Phật “thọ kư” con sẽ thành Phật,
con nghi ngờ tự hỏi có phải ma giả Phật để năo loạn ḷng con. Nhưng sau
nhờ những tỷ dụ của Phật, con mới hết nghi và tin quả quyết rằng con sẽ
thành Phật”.
Đức Phật lại bảo: Xá-lợi-phất! Ta xưa đă từng giáo hóa ông, từng dẫn dắt ông
trong thời gian dài ở hai muôn đức Phật. Ta hướng dẫn ông đi trên con đường
thành Phật, nhưng ông lại quên mà tưởng là diệt độ trong khi chưa đến đích.
Nay ta muốn cho ông nhớ lại chí nguyện thành Phật xưa kia mà v́ hàng Thanh
Văn nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm
nầy. Như Lai cũng nói trước cho ông biết, trong vị lai vô số kiếp, ông
cúng dường vô số Phật, phụng tŕ chánh pháp làm đủ đạo Bồ tát rồi ông sẽ
thành Phật hiệu Hoa Quang Như Lai đủ mười đức hiệu, nước tên Ly-Cấu, kiếp
tên Đại Bảo Trang Nghiêm. Số Bồ tát được ông giáo hóa nhiều vô lượng.
Xá-lợi-phất! Đức Hoa Quang Như Lai sau đó “thọ kư” cho Bồ tát Kiên Măn
sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai đủ mười đức hiệu và cơi nước
cũng trang nghiêm như vậy.
Đại chúng thấy Phật “thọ kư” ông Xá-lợi-phất được thành Phật, vui mừng hớn
hở, mỗi người cởi thượng y của ḿnh dâng lên cúng Phật.
Xá-lợi-phất thưa: Bạch Thế Tôn! “ Trước kia Phật thường dạy: “ Giáo pháp của
Như Lai có công năng xa ĺa sanh, già, bệnh, chết và được cứu cánh Niết Bàn”.
Các hàng Thanh Văn đă nghe và hành theo, ai cũng tưởng là ḿnh được Niết Bàn
rồi. Nay Phật lại đưa ra thứ giáo pháp chưa ai từng nghe: Rằng “ Niết Bàn
ấy chưa phải rốt ráo tịch diệt, mà rốt ráo phải thành Phật”. Con e sợ hàng
Thanh Văn c̣n chỗ nghi ngờ. Cúi xin Thế Tôn, v́ bổn chúng giải thích rơ ư
thú của lời Phật.”
Phật bảo: Trước đây Như Lai há chẳng nói rằng, tất cả giáo pháp của Phật dạy
đều là phương tiện đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đó sao? Nhưng
thôi, để cho người trí hiểu được Như Lai có cái thí dụ này:
Trong một xứ nọ, có ông trưởng giả giàu to của cải vô lượng, nhưng tuổi đă
già suy. Nhà của ông rộng lớn chứa rất nhiều người, trong số có các con của
ông, nhưng phải cái nguy là ngôi nhà mục nát, cột kèo ngả đổ, vách phên xiêu
xập, rắn rít rất nhiều thêm nổi lửa cháy bốn bề mà lối ra th́ chỉ có một cửa.
Ông Trưởng Giả đứng ngoài lo sợ cho các con, nghĩ bụng rằng: Ta có thể xong
vào cứu chúng, nhưng nhớ đến cửa nhỏ hẹp, sợ các con dùng dằng không đem ra
được hết. Trong lúc nguy hại trước mắt các con của ông cứ đùa giỡn vui chơi,
không biết sợ sệt ǵ hết và cũng không có ư muốn ra, v́ không biết nhà cháy
là ǵ, chết thêu là ǵ, lửa là ǵ !
Ông Trưởng Giả bèn lập kế, ông hô to: “ Các con! Cha có những đồ chơi đẹp
lắm đây. Xe dê, xe hưu , xe trâu trắng, xe nào cũng đẹp đẽ trang sức lộng
lẫy, các con mau ra tự chọn lấy xe theo ư thích”.
Các con ganh đua xô đẫy lẫn nhau kéo nhau chạy ra khỏi nhà cháy. Ông Trưởng
Giả rất mừng khi thấy các con được an ổn. Ở nơi ngă tư đường không c̣n ngui
hại.
Bây giờ các con xúm lại đ̣i đồ chơi, với ước muốn riêng, xe dê, xe hưu theo
ư thích, nhưng ông Trưởng Giả chỉ ban cho các con đồng một thứ xe lớn tốt
đẹp vô cùng, đầy đủ tiện nghi trang hoàng lộng lẫy. V́ sao, ông Trưởng Giả
không cho ba thứ xe lớn nhỏ, tốt đẹp khác nhau mà lại cho đồng một thứ xe
tuyệt đẹp. V́ ông Trưởng Giả quá giàu, kho tàng đầy ngập, của cải vô lượng!
Đến đây, đức Phật hỏi ông Xá-lợi-phất: “Ông Trưởng Giả trước hứa cho ba thứ
xe, nay lại cho có một thứ, mà là thứ lớn, đẹp nhất. Vậy ông Trưởng Giả có
lỗi nói dối không?”
Ông Xá-lợi-phất đáp: “ Dạ không. Giả như cho chiếc xe nhỏ và xấu nhất, ông
Trưởng Giả cũng không có lỗi nói dối, huống ǵ cho thứ xe lớn và đẹp nhất.
V́ sao? V́ việc hứa cho xe chỉ là một sách lược, một cách phương tiện, nhằm
cứu các con ra khỏi nhà lửa đang ngùn ngụt cháy.”
Phật khen: Đúng vậy, Xá-lợi-phất! Như Lai là cha của tất cả thế gian. Tuy
đă ra khỏi thế gian vẫn v́ sự lợi ích của thế gian mà trở vào nhà lửa tam
giới cũ mục nguy hiểm nầy để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa sanh già, bệnh ,
chết, lo buồn, khổ năo, tham lam, hung bạo, si me, tắm ḿnh trong biển độc
hại khổ đau. Sống trong cảnh khổ nhà cháy như thế mà chúng sanh vẫn cứ vui
chơi hỉ hả, chẳng hay ḿnh đang bị lửa đốt, không sợ, không nhàm, không có ư
cầu ra khỏi.
Trong việc cứu độ chúng sanh, Như Lai đă từng suy nghĩ: Đem trí tuệ thần
thông, giảng nói các tri kiến, trí lực, vô sở úy… của Như Lai không thể được.
V́ chúng sanh đang dong duỗi nô đùa trong rừng vô minh tam độc, bị thêu đốt
trong nhà lửa sanh , già, bệnh, chết, khổ năo, ưu bi th́ làm ǵ nghe hiểu mà
tiếp thu. Do vậy, Như Lai phải dùng phương tiện, quyền lập pháp tu: Một là
Thanh Văn thừa (xe dê). Hai là Duyên Giác thừa (xe hưu). Ba là Bồ Tát
thừa (xe trâu trắng). Đó là Như Lai vận dụng phương tiện đáp ứng căn cơ của
mỗi hạng chúng sanh.
Ông Trưởng Giả cho đều các con mỗi đứa một cỗ xe to đẹp, khi chúng ra khỏi
nhà lửa. Như Lai cũng vậy, khi chúng sanh ra khỏi sự khổ năo, ưu bi, sanh,
già, bệnh, chết, bất luận là Thanh Văn, Duyên Giác, hay Bồ Tát, Như Lai bèn
cho cái vui tuyệt đỉnh là: Thiền Định, Trí Tuệ và Tri Kiến Phật… là những cỗ
xe đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như ông Trưởng Giả kia,
đức Phật không phạm tội nói dối.
Xá-lợi-phất! V́ nhân duyên đó, các Như Lai dùng sức phương tiện: chỉ có một
Phật thừa, phân biệt nói thành ba.
THÂM NGHĨA
Cho đến lúc sắp nhập Niết Bàn, Như Lai mới nói thật hoài bảo của ḿnh.
Th́ ra trong quá tŕnh thuyết giáo độ sanh đăng đẳng hơn 40 năm, Như Lai sử
dụng vô số “phương tiện”.
Hiểu được chủ ư của Phật, ông Xá-lợi-phất trút bỏ gánh nghi ngờ, ân hận,
trách phận, thương thân, ông tự xác định lỗi do ḿnh “hấp tấp” vừa nghe pháp
“phương tiện” vội ham… mong cầu chứng đắc Niết Bàn. Giờ nghe Phật dạy, con
biết rơ quả chứng đắc của Tiểu Thừa dù được Niết Bàn, nhưng chưa phải là
thật diệt độ. Thật dịêt độ, phải là người đi cổ xe Vô Thượng Chánh Biến Tri
Giác. Và đến đây ông tự xác định ông có điều kiện, đủ khả năng đi trên cổ
xe lớn đó. Ông tự nhận một cách quả quyết rằng ḿnh là Phật tử (Tùng Phật
khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần cô danh Phật Tử).
Với nguồn giáo lư Tiểu Thừa, đức Phật dạy cho họ có 9 bộ kinh. “Phương
quảng”, “ thọ kư” và “vô vấn tự thuyết” đối với người Tiểu Thừa Phật chưa đề
cập đến. V́ vậy với hàng Thanh Văn được “thọ kư” thành Phật là một sự bất
ngờ sửng sốt, quá sức tin hiểu của ḿnh. Nhưng giờ th́ ông Xá-lợi-phất đă
hiểu chân lư đó.
Trong nguồn giáo lư Phật dạy cho Tiểu Thừa vẫn có mầm móng Đại Thừa. Vả
lại, trong những thời của hai muôn đức Phật xa xưa, Xá-lợi-phất và Phật đă
từng gieo trồng hạt giống Đại Thừa: “Thế thế thường hành Bồ Tát đạo”. Nếu
không vậy, làm sao có sự hội ngộ ngày nay.
Đức Phật nói: “ Nay tôi muốn ông nhớ lại chí nguyện thành Phật xưa kia và
v́ hàng Thanh Văn mà nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp
Phật Sở Hộ Niệm nầy”.
Ông Xá-lợi-phất là người được Phật “thọ kư” trước hết trong số những đối
tượng được “thọ kư” ở kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Nguồn tư tưởng của kinh Pháp Hoa và vấn đề Thọ Kư thành
Phật được xem là chân lư phổ biến. V́ là chân lư cho nên đó là việc của ba
đời chư Phật đă làm, đang làm và sẽ làm. Được Phật “thọ kư thành Phật” là
một việc. Điều kiện thành Phật lại là việc phải đặc biệt quan tâm.
Tâm trạng nghi ngờ của hàng Thanh Văn không có ǵ đáng trách. Pháp Tứ Đế,
Phật dạy, họ đă tu hành, Niết Bàn tịch dịêt giáo lư Phật nói ra, họ đă chứng.
Nay th́ Phật nói Niết Bàn của Thanh Văn, La Hán qủa chưa phải là đích đến
cuối cùng.
Ở phẩm này, kinh dùng một thí dụ để giái thích tại sao chỉ có một “Phật
thừa” mà trước kia Phật lại dạy có ba (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát)
Trong thí dụ hỏa trạch (nhà bị cháy). Ông Trưởng Giả chỉ Phật. Những
đứa con chỉ chúng sanh. Lửa cháy, mục nát, rắn rít… chỉ cảnh thống khổ:
sanh, lăo, bệnh, tử, ưu bi, khổ năo của chúng sanh trong “tam giới”. Ba xe,
dụ ba thừa, hay ba bậc tu hành là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Thanh Văn
tiểu quả, ví xe dê. Duyên Giác trung thừa, ví xe hưu. Bồ Tát hay Phật thừa,
ví xe trâu trắng lớn.
Xe nhỏ, ví hạng người chỉ có khả năng tự độ, không giúp ích được cho
người khác. Xe lớn , ám chỉ tánh tích cực của hạng người ng̣ai phần tự độ
c̣n xem trọng việc độ tha.
Sở dĩ từ lâu Phật nói Pháp tam thừa v́ chúng sanh ham mê cuộc sống “dục
vọng”, cuộc sống “vật chất” và những niệm tưởng “trừu tượng hoang đường” của
ba cảnh giới (Dục, Sắc và Vô-sắc giới). Phật không thể đem chân lư liễu
nghĩa Đại Thừa ra mà dạy. Giả sử có đem ra dạy chúng sanh cũng không hiểu,
cũng chẳng tiếp thu. Do vậy, Phật phải dùng “phương tiện” dạy pháp tu tập
lần lần (tiệm tu, tiệm ngộ, tiệm chứng) tùy khả năng của từng hạng người để
ai cũng được có phần an ổn thanh thoát. Khi căn cơ, tŕnh độ nhận thức của
chúng sanh có khả năng tiếp thu, bấy giờ mới đem thứ giáo pháp “đệ nhất
nghĩa” ra mà dạy.
Những ngừơi con của ông Trưởng Giả ra khỏi nhà cháy, ám chỉ chúng sanh,
nhờ sự dẫn dụ của giáo lư tam thừa mà ra khỏi cảnh ba giới: Dục, Sắc, và Vô
sắc được an ổn, thanh thóat gọi là Niết Bàn.
Ông Trưởng Giả cho các con một thứ xe lớn nhất và đẹp nhất khi các con ra
khỏi ngôi nhà lửa. Cũng như đức Phật cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác giáo
pháp Đại Thừa liễu nghĩa là thứ giáo pháp hoàn bị tột mức trên con đường
chuyển hóa tâm linh, từ phàm đến thánh, từ chúng sanh đến địa vị Phật.
Ngôi nhà rộng lớn mà chỉ có một cửa ra, ám chỉ ba cơi (cảnh giới) thênh
thang không ranh giới, nhưng muốn ra khỏi chỉ co một con đường, con đường
“bát chánh” và một cửa, cửa “tam giải thoát môn”.
Cửa tuy mở nhưng khó ra, tại v́ không có ngừơi muốn ra: chỉ v́ chúng sanh
măi mê dục lạc trong ba cơi, mà không nhận biết sự nguy hiểm của sanh , lăo,
bệnh, tử , khổ năo, ưu bi…
Ông Trưởng Giả chỉ “ứng thân Phật” xuất thế cứu độ chúng sanh v́ lợi lạc
mọi căn cơ mà vận dụng phương tiện thuyết giáo có tam thừa, nhưng mục đích
tối hậu nhằm hướng dẫn mọi chúng sanh thể nhập “Phật thừa tự tánh” vốn có.
Cũng như ông Trưởng Giả hứa cho các con ba xe, rốt cuộc lại cho có một.
Đức Phật hơn 40 năm thuyết Tam Thừa, giờ đây, Phật nói chỉ có một Phật thừa
chứ không có thừa nào khác.
Đứng trên lập trường “đệ nhất nghĩa” th́ chỉ có một Phật thừa, chứ không
có “ba thừa”.
Khi đề cập “tam thừa”, “ngũ thừa”, phải hiểu đó là phương tiện của Như
Lai.
|